PHƯƠNG PHÁP TRỊ BỆNH KHÍ – PHẦN 2: SƠ KHÍ
PHẦN 2: SƠ KHÍ
Sơ khí, lý khí, lợi khí, hành khí, thư khí là tên gọi khác nhau, mức độ khác nhau, song tóm lại đều là sơ dưỡng khí phận. Nội kinh nói “Sơ khí kiêm điều khí”
Y học cổ truyền coi trọng tác dụng của khí, phương pháp sơ khí được dùng rộng rãi trên lâm sàng. Khí cơ đầy đủ thì mọi trở trệ trong người giảm hoặc mất đi. Nên trong phương trị bất luận bổ, tiêu hay hạ bao hàm các mặt hóa đàm lợi thấp, hoạt huyết… đều có thuốc sơ khí phối hợp. Đó là một đặc điểm.
Nguyên nhân của khí uất trệ phần nhiều do thất tình gây nên, sau đó là do đàm thấp trở trệ. Sơ khí thường dùng cho 2 kinh Can và Vị. Bởi vì can khí dễ bị tình chí kích thích gây nên uất kết và hoành nghịch, vì khí đã bị đàm trở trệ mà sinh hiện tượng ngực sườn đầy tức. Các thuốc sơ khí thường cay, thơm mà táo, dùng lâu ngày sẽ bị hao khí, tán khí và tiêu hao tân dịch do đó với người huyết hư, âm hư hỏa vượng thì không nên dùng
1. Phương pháp sơ can lý khí
Chứng thích ứng: Đầy tức ngực sườn, hiếp thống, bụng dưới đầy chướng và đau
Thuốc thường dùng: Uất kim, hương phụ, sài hồ, thanh bì, diên hồ, hòe hoa
Thuốc sơ can lý khí thường dùng với can khí hoành nghịch, để hành khí, tán khí hiệu quả tương đối nhanh. Tính vị của các thuốc này thường cay, thơm, táo, dễ hao tổn chính khí, nên khi dùng phải chú ý 2 điểm: Can là tướng hỏa, khí nghịch tắc tướng hỏa dễ động. Bệnh nhẹ do nội nhiệt, bệnh nặng do can hỏa bị kích động, can tàng huyết, can chủ sơ tiết điều đạt, các chức năng này có quan hệ mật thiết với nhau, can khí thái quá làm can khí tổn thương, dùng thuốc lý khí cũng đề phòng được can huyết hư, khi can khí bị bệnh thường phải sơ khí là lý do như vậy. Khi sử dụng phương thường dùng phương thường dùng bạch thược để hỗ trợ bổ âm, như bài Tứ nhịch tán (sài hồ, trần bì, bạch thược, xuyên khung, hương phụ, chỉ xác)…
Chứng uất thuộc can khí uất kết, khí uất phải sơ khí. Nhưng can khí hoành nghịch là do khí thái quá, can khí uất kết là do tác dụng của khí bất cập. Nguyên nhân gây bệnh có khác nhau, tuy nhiên can uất lâu ngày có thể biến thành can khí. Nhưng khi can khí uất kết không thể dùng thuốc chữa khí nghịch để trị. Chứng can uất là do suy nghĩ nhiều ngực sườn đầy tức, làm ảnh hưởng tâm tỳ mệt mỏi, chán ăn, mộng mị nhiều, khác với can khí bị bệnh. Nói chung khi điều trị thường dùng bài Tiêu giao tán (bạch linh, bạch truật, bạch thược, sài hồ, đương quy, chi tử, đan bì) để hòa huyết, thư khí và kiện trung điều lý hoặc bài Việt cúc hoàn (hương phụ, thương truật, sơ chi, xuyên khung, thần khúc) để giải uất. Bởi khi khí uất là do nhiệt uất, nhiệt uất tất đàm uất, đàm uất tất huyết uất, huyết uất tất thực uất. Vì vậy mà gây nên bệnh. Thường dùng hương phụ để lý khí, sơn chi tả hỏa, thần khúc tiêu thực, có đàm gia bối mẫu. Có 5 loại uất. Khi điều trị phải dựa vào nguyên nhân mà chữa, không nên cố chấp một phương nhất định. Dùng Tiêu giao tán trị uất do huyết hư, Việt cúc hoàn trị uất do khí thực
2. Phương pháp hòa vị lý khí
Chứng thích ứng: Vị quản, phúc trướng, đau tức, ợ ra nước chua
Thuốc thường dùng: Bán hạ, trần bì, phục linh, chỉ xác, sa nhân, mộc hương, ô dược, hậu phác, hoắc hương
Vị khí hòa giáng là quý, nếu vị khí nghịch tất tiêu hóa kém, bụng đầy chướng và đau. Căn cứ nguyên nhân như thất tình, hàn tà xâm nhập và đàm trở trệ có quan hệ trực tiếp với nhau
Căn cứ vào nội tạng mà nói thì tạng can và tiểu trường có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy mà dùng thuốc lý khí hòa vị phải căn cứ vào tình hình cụ thể của bệnh mà dùng. Như bài Ôn đởm thang là bài Nhị trần thang gia chỉ thực, trúc nhự có lý khí và hòa trung, kết hợp với trừ đàm hóa thấp. Nếu bị thấp nhiều gia hậu phác, bụng đầy gia mộc hương, ô dược, ngoài ra còn tùy chứng mà dùng hương phụ, thần khúc, đại phúc bì, binh lang, chỉ thực… Trong điều trị phải dựa vào các mối quan hệ tạng phủ này với tạng phủ khác, đặc biệt là điều trị về khí phận. Về phương diện lý khí thì quan quan hệ càng rộng. Còn phải nghĩ đến nguyên nhân và hậu quả của nó. Vì vậy sử dụng phương phải có chủ có thứ không chỉ dùng lý khí đơn thuần